Giải pháp này còn được gọi là hệ thống “3 trong 1“, giải quyết được 3 vấn đề sau:
- Ống nối thêm từ nhà vệ sinh tới bể phân giải thường làm góc lệch giữa ống lối vào và ống lối ra nhỏ hơn so với thiết kế (góc lệch <1800).
- Tỷ lệ nạp nguyên liệu sai khác so với hướng dẫn và cho nước quá nhiều vào bể phân giải khi tắm cho vật nuôi.
- Nước xả khí sinh học không được xử lý, thường để chảy tự do trên mặt đất hoặc trên rãnh đào sơ sài dẫn ra ngoài vườn.
Giải pháp được thực hiện như sau:
Chất thải từ nhà vệ sinh được đưa vào bể phân giải qua ống dẫn, trong khi phân vật nuôi chỉ có thể vào bể phân giải qua cửa nạp A khi được mở và cửa B đóng kín.
|
Sơ đồ hệ thống kết hợp nhà vệ sinh, công trình khí sinh học và bể chứa nước xả
|
Khi nước rửa chuồng, tắm cho vật nuôi bắt đầu chảy vào bể nạp, cửa nạp A đóng lại, cửa B mở ra. Lúc này toàn bộ nước thừa sẽ chảy theo rãnh hoặc ống.
Trong thực tế, bể nạp luôn được khuyến khích xây dựng để kiểm soát tỉ lệ nguyên liệu nạp và có thể thực hiện các kết nối khác một cách dễ dàng.
|
Sơ đồ lắp đặt đường ống dẫn từ WC và ống dẫn nước thừa trong mặt bằng hẹp
|
Trong trường hợp hộ dân có diện tích mặt bằng hạn chế, toàn bộ công trình nằm dưới nền chuồng vật nuôi, không thể làm bể nạp, có thể lắp đường ống dẫn từ nhà vệ sinh và đường thoát nước thừa như mô tả trong hình 9.
Chi tiết các nội dung cải tiến:
a) Bể nạp: xây bằng gạch, thể tích chứa khoảng 0,06m3
b) Đường thoát nước thừa: dùng ống nhựa PVC (đường kính tối thiểu là 9cm) hoặc xây rãnh lát gạch. Đường thoát này nối thẳng tới bể chứa nước xả chảy từ bể điều áp, và nên được chôn dưới mặt đất 10cm nếu là ống PVC hoặc có nắp đậy nếu là rãnh lát gạch. Độ dốc của đường thoát phải đạt tối thiểu 10% để đảm bảo nước có thể chảy tự nhiên vào bể chứa.
c) Các nắp đậy cửa nạp A và B: có thể được đúc bằng bê tông mác thấp nhưng đảm bảo đường kính lớn nhất (D) lớn hơn đường kính ngoài của ống là 0,5cm.
|
Nắp đậy của ống vào
|
d) Ống dẫn từ nhà vệ sinh: dùng ống nhựa PVC có đường kính tối thiểu là 9cm. Điểm nối của đường ống này với ống lối vào bể phân giải phải cao hơn mức xả tràn ở bể điều áp ít nhất là 10cm. Trên đường ống có điểm nối với một đoạn ống khác (có đường kính nhỏ hơn) để làm nhiệm vụ thoát hơi khi người sử dụng xả nước từ bệ xí. Để thuận lợi trong sử dụng, đáy của bệ xí phải cao hơn sàn chuồng vật nuôi tối thiểu 30cm. Hàng ngày sử dụng nước sạch và bàn chải để làm sạch bệ xí. Không sử dụng chất tẩy rửa để ngăn không cho độc tố xâm nhập vào bể phân giải.
e) Bể chứa nước xả: được xây bằng gạch, hình chữ nhật. Thể tích của bể phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng nước xả. Trong bất cứ trường hợp nào đường thoát của bể chứa này phải thấp hơn đường vào ở bể điều áp là 5cm. Độ dày của tường bể là 7cm (sau khi trát), bên trong của bể nên xây thành 3 ngăn.
|
Hình cắt đứng của bể xử lý nước xả khí sinh học
|
Để thuận tiện kiểm tra mực nước xả hay bơm nước, trên nắp bể chứa nên bố trí một cửa thăm có kích thước là 40cm x 40cm.
|
Hình chiếu bằng của bể xử lý nước xả khí sinh học
|
Trang Đậu (theo Văn phòng dự án khí sinh học Trung Ương)
|